VỊT NGUỒN GỐC CỦA CÁC LOẠI VỊT

0
505

Vịt là loài thủy cầm thân tròn, cổ ngắn trong họ Anatidae (cũng như ngỗng và thiên nga) sống ở nhiều môi trường sống khác nhau trên thế giới miễn là chúng có nước và những khu vực ẩm ướt. Trong bài viết này bạn sẽ tìm hiểu mọi thứ về nội địa vịt , từ nguồn gốc của mình để nuôi dưỡng và bệnh tật của họ.

Các loại vịt
Pekin hoặc vịt thông thường

Giống như bất kỳ loài nào, vịt có rất nhiều chủng tộc khác nhau, có thể sống trong nhà hoặc hoang dã, nhưng loài đặc trưng nhất cho nó là Anas platyrhynchos domesticus , còn được gọi là vịt Bắc Kinh, vịt nhà hoặc vịt thông thường.

Nguồn gốc của vịt trong nước

Các nước hoặc trang trại vịt có như tổ tiên hoang dã của nó vịt trời ( Anas platyrhynchos ), có ngày trở lại hơn 2000 năm thuần hóa. Thuật ngữ này xuất phát từ tiếng Latinh được dịch thành ba từ: Anas = Duck; Platus = rộng và rhynchos = tăng vọt. Được dịch là ” vịt có thanh toán rộng “. Tiền thân của nó cũng đã làm nảy sinh các loài khác lớn hơn như thiên nga, ngỗng và ngỗng trời.

Không ai biết chính xác thời điểm thuần hóa vịt hoang dã bắt đầu, nhưng có bằng chứng cho thấy người Ai Cập, thuộc địa châu Á và người La Mã duy trì liên lạc trực tiếp và thường xuyên với những con chim này cho các hoạt động khác nhau như tế lễ tôn giáo, thức ăn, trứng hoặc bầu bạn.

Một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất giữa vịt hoang dã và vịt nhà là vịt nhà gần như mất hoàn toàn khả năng bay do mất sức mạnh ở đôi cánh ngắn hơn và nhẹ hơn, còn vịt trời thì bay hoàn toàn.

Đặc điểm của vịt

Dù là giống vịt nào thì chúng đều có chung những đặc điểm giúp phân biệt chúng với các loài chim khác, thậm chí cả những loài giống nhau nhất như ngỗng, thiên nga. Ví dụ, hầu hết vịt có màu vàng khi mới sinh , thay đổi màu khi chúng lớn lên. Cổ ngắn và thân hình tròn trịa. Màu sắc của mỏ cũng đa dạng, một số có màu xám và một số khác có thể có màu cam.

Tóm tắt lại các đặc điểm của vịt có thể được trình bày như sau:

  • Màu vàng lúc mới sinh.
  • Cổ của nó ngắn hơn các loài chim khác (thiên nga và ngỗng)
  • Cơ thể tròn và ngồi xổm.
  • Mỏ của nó dẹt và có các sắc thái khác nhau.
  • Chân ngắn.
  • Nó là loài chim có màng nên chân của nó cũng có màng (cho thấy nó là loài chim nước).
  • Nó di chuyển rất nhanh nhẹn trong nước, nhưng trên cạn nó đi lại hơi vụng về và khó khăn.
  • Nó là một loài chim đa thê.
  • Bài hát của con vịt được nghe như một ” lang băm ” có tên là Squawk.
  • Những con vịt nhà đã hoàn toàn mất khả năng bay hoặc làm như vậy trong những chuyến bay ngắn và vụng về.

Sự khác biệt giữa ngỗng (ngan) và vịt

Người ta rất hay nhầm lẫn ngỗng với vịt và ngược lại, mặc dù chúng thuộc cùng một họ (anatidae) và cả hai đều là loài thủy cầm sống trên cạn nhưng chúng cũng có những khác biệt lớn giữa loài này và loài khác.

  • Con ngỗng là một loài chim lớn hơn và nặng hơn.
  • Cổ ngỗng dài hơn, có khi gấp đôi cổ vịt.
  • Vịt đi trên cạn tốt hơn, ngỗng còn vụng về hơn chứ còn gì tuyệt hơn.
  • Ngỗng hung dữ và giành lãnh thổ hơn vịt, đến nỗi chúng được biết đến với những cái phổi của chúng bởi những kẻ mà chúng cho là mối đe dọa.
  • Vịt kêu với tiếng rít ở mũi và ngỗng phát ra tiếng rít qua miệng.

Có hàng ngàn sự khác biệt, cả về thể chất, hành vi, tình dục và thậm chí cả tình cảm, nhưng bây giờ không cần phải đi sâu hơn, biết những điểm khác biệt chính có thể phân biệt loài này với loài khác.

Các giống vịt

Có một số lượng lớn các giống vịt trên khắp thế giới, tuy nhiên, loài tiêu biểu nhất chắc chắn là vịt Pekin. Các giống quan trọng khác là vịt Rouen, vịt cắt tóc và Campbell. Tuy nhiên, hiện nay các giống vịt này có thể được nhóm lại thành hai loại khác nhau: 1) các giống vịt thịt và 2) các giống vịt đẻ trứng hoặc vịt đẻ .

Các giống vịt thịt:

  • Vịt Pekin (được nuôi nhiều nhất trên toàn thế giới).
  • Rouen .
  • Muscovy hoặc Mexico Creole Duck
  • Campbell

Các giống vịt đẻ

  • Buff Orpington Duck
  • Campbell
  • Muscovy
  • Hành lang Ấn Độ

Các bệnh thường gặp ở vịt

Mặc dù là loài gia cầm khỏe, ít bị bệnh hơn gà, danh sách các bệnh ở vịt vẫn còn dài, nhưng trong chương này, những bệnh liên quan nhất trong hệ thống chăn nuôi vịt sẽ được đề cập đến.

Cần nhấn mạnh rằng khi xác định chim bị bệnh, trách nhiệm cao nhất là đưa ngay đến bác sĩ chuyên khoa để xác định rõ nguyên nhân gây bệnh. Vì vậy, cái chết của một số con vịt trong trang trại nên được coi là bình thường , điều quan trọng là tốc độ phản ứng với một vấn đề như vậy và tránh lây nhiễm của nó.

1.Amyloidosis

Đây là bệnh phổ biến nhất ở vịt nhà, nó còn được gọi với cái tên “ bệnh gan ” vẫn chưa được biết nguyên nhân và chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Nó được đặc trưng bởi sự cứng của gan và bởi vì, khi nó xảy ra ở vịt trong sản xuất, nó gây ra tỷ lệ chết lên đến 10%.

2.Mycoplasmosis

Đây là bệnh do nấm Mycoplasma gallisosystemum và Mycoplasma syviae gây ra . Loại thứ nhất gây ra bệnh hô hấp mãn tính ở gà và viêm xoang truyền nhiễm ở vịt. Các triệu chứng không liên quan đến hệ hô hấp có thể là thở khò khè nhẹ hoặc đáng chú ý, khó thở, ho và hắt hơi, chảy nước mũi và có bọt quanh mắt. Số lượng mắc bệnh cao, may mắn là tỷ lệ tử vong thấp.

3.Gumboro

Nó còn được gọi là bệnh ” Bursa de Fabricio “, nó là một bệnh nhiễm vi rút (Birnavirus) ảnh hưởng đến gà từ 1-6 tuần tuổi, gây ra hệ thống miễn dịch thấp, do đó gia cầm bị nhiễm vi khuẩn thứ cấp (viêm gan và viêm da, trong số khác). Vịt cũng có thể bị nhiễm trùng cận lâm sàng của bệnh, có biểu hiện suy nhược thần kinh, mất nước, tiêu chảy phân trắng, viêm da cục với khối phồng to như thạch. Đây là một căn bệnh rất dễ lây lan, rất may là thời gian hồi phục mất khoảng bảy ngày. Tỷ lệ tử vong không đạt 30% và đôi khi có thể không được chú ý.

4.Bệnh dịch tả gà

Đó là bệnh do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra . Trong trường hợp cấp tính, nhiều con gia cầm chết được tìm thấy mà không có các triệu chứng trước đó. Đây là một bệnh nhiễm trùng rất dễ lây lan và tỷ lệ tử vong của nó có thể lên tới 50% hoặc hơn. Trong số các triệu chứng của nó có thể được quan sát thấy sốt, trầm cảm, chán ăn, chất nhầy, xù lông, tiêu chảy. Ở trạng thái mãn tính, có thể quan sát thấy sưng cằm, khớp, bao gân và lòng bàn chân, viêm kết mạc và viêm họng xuất tiết. Có thể xuất hiện ở chim non và chim trưởng thành.

Vệ sinh thường xuyên và nghiêm ngặt giúp kiểm soát bệnh lây truyền qua ruồi, loài gặm nhấm và chim hoang dã.

5.Viêm ruột do virus

Là một bệnh cấp tính do virus (viêm da do virus herpes) ở vịt, ngan và ngan trưởng thành, gây tử vong cao. Nó tạo ra các tổn thương chảy máu (xuất huyết) ở tim, gan và đường tiêu hóa từ thực quản đến cục máu đông.

6.Cúm gia cầm

Cúm gia cầm còn được gọi là bệnh cúm là một bệnh do vi rút rất dễ lây lan ảnh hưởng đến gà, gà tây, vịt và các loài gia cầm khác. Nó có thể được trình bày theo hai cách:

  • Cúm gia cầm độc lực thấp (LPAI). Nó là một dạng biến thể vừa phải, nhưng các virut gây bệnh thấp có thể đột biến và rất có hại.
  • Cúm gia cầm độc lực cao (HPAI). Nó có khả năng lây nhiễm cao và có thể gây ra tỷ lệ chết cao ở gia cầm.

7.Parvovirus

Có hai bệnh do nhiễm Parvovirus ảnh hưởng đến vịt. Một là bệnh Derzsy (bệnh Parvo virosis ở ngỗng), rất dễ lây ở ngỗng non và vịt Muscovy. Các triệu chứng là tình trạng viêm nghiêm trọng của màng bao phủ tim và gan. Một căn bệnh liên quan khác là Muscovy Duck Parvo Virosis, gây tổn thương hệ thống vận động, gây sụt cân và chết ở một tỷ lệ cao số gia cầm mắc bệnh. Bệnh này gây hại cho vịt 1-3 tuần tuổi.

Xem thêm: GÀ TÂY TUYẾT THỔ NHĨ KỲ (HÀ LAN TRẮNG)